唔好成日講搵工甜故,今日認真講下搵工。
1. 搵工第一件事,執CV
基本嘢英文文法唔好錯,最重要簡單整潔,大約一頁CV 就足夠,過長太boring。
關鍵字亦好重要。一般大公司都係CV 做關鍵字screening 先,之後才有HR review 你的CV。例如,你apply bank finance team,banking return. FRR 之類的關鍵字要見到,你先可以pass 到system 呢關。
即使你pass 到system 呢個關卡,但HR 都要review 好多CV,到底如何stand out 呢?
網上有CV 生成器,我用開cake resume 的CV 生成器,最少令你CV 比其他applicant 有d唔用嘅地方,增加成功機會。
2. Apply 工同send CV
宜家呢個時勢,如果你失業,就千萬不要挑剔,點為之挑剔呢? 就係你無興趣又睇唔起嘅工,你唔去apply。 你第一個反應問:「就算佢請我,我都唔會做,間公司咁細,人工又唔好,咁做咩要apply,浪費時間呢? 」
如果我同你講,時間從來唔會浪費呢?又如何?
Interview 要practice,practice makes perfect。In 得多你慢慢知道interviewer 會問咩問題,佢要嘅係咩人。至少你成日interview,你唔會好似第一次咁口震震呀。
更重要係如果你interview manager or assistant manager position,其實in 你嘅都係Financial controller or senior manager,佢地嘅時間就係金錢,但佢地竟然浪費時間去interview 你,即使係幾細嘅公司,每一次interview 都係一個學習嘅過程,它都令你下一次interview 做得更加好。
都係果句,盡可能send 更多CV 出去,即使不是你嘅專業,即使你只係做audit 狗,但都可以send CV 去apply investment manager,credit control,compliance或者其他financial service position。如果你連機會都唔俾自己,你點會搵到工。
當然send CV website 有LinkedIn, cpjobs, ctgoodjobs, jobsdb, efinancial。我最常用LinkedIn, ctgoodjobs 同jobsdb。
Jobsdb d job 係無咁好paid,但勝左apply 完真係有人review 你嘅cv,唔會好似其他website 咁次次apply 都石沉大海。 我朋友話一個job ads 係jobsdb 兩個鐘就有200 個applicants apply,簡單來說就係手快有,手慢連interview 機會都無。
我平時就下午12:30-14:00 搵工,去不同的website send CV,大約apply 10 份工先,到下午3-4 點去個coffee break,再apply 3 份工,之後放工再apply 多十幾份工。apply 工又無成本,都係1 click apply,點解唔俾個機會自己呢?
3. Interview preparation
基本要預備以下問題:
「點解對我地position 有興趣?」
「你以前份工遇到最大困難係咩?」
「你個experience 唔夠,你覺得我地公司點解要㨂你?」
「做manager 你覺得最重要係咩skills?」
「你career path 係咩?Short term 同long term goal 係咩?」
呢啲基本question 自然要諗好點答,點樣可以用你過去experience 去貢獻到間公司。
In case 你真係轉field,又真係對新position 一啲認識都無,你show 到一個can do attitude 又係另一個致勝關鍵。畢竟要學識又唔係難事,難就難在佢唔俾機會你。當然,就算你demonstrate 到你有can do attitude,你都要有一定soft skills (eg. people management skills, project management skills, communication skill等等) 的配合,唔係都無用。
4. 如果interview 又失敗,點算好呢
每一次失敗,都要反醒你interview 失敗的原因,唔好成日歸咎於你係呢行唔夠經驗。因為佢地係scan 過你CV先interview 你,但就算佢知你唔夠經驗都肯in 你,代表佢都肯俾個機會你。當然宜家疫市,經驗充足一定佔優,但interview 得總係有機會嘅。
最好每次失敗都想想,你係咪答得唔好呢?又或者面部表情做得唔好?
Interview 係一個market 自己嘅過程, 就係包裝自己再將自己賣出去。如果你都唔相信自己做得到,interviewer 又點會相信你呢?
我會建議每次interview 前對住塊鏡催眠一下自己:
「我有信心,我係你地想請嘅人」
「我有信心即使我經歷唔夠,但我可以憑住我的soft skills 同can do attitude 好快學識。」
「我有信心,係咁多applicant 入面,我係最適合的一個。」
不要取笑這個催眠過程,如果你連自己都唔信自己,難道你要求你interviewer 要相信你有能力去帶領佢地嘅部門嗎?
你要令佢地無猶豫咁請你,靠嘅並唔係你有幾多經驗,而係靠你market 自己的能力。
當然搵工係靠運氣,但就算你有運氣又有機會,你又可唔可以把握到個機會呢? 呢個就睇你market 自己嘅能力。
簡單、清晰、令interviewer請你沒有一點猶豫。
希望幫到大家!
IG: Fakemanching1607
同時也有10000部Youtube影片,追蹤數超過2,910的網紅コバにゃんチャンネル,也在其Youtube影片中提到,...
「short-term career goal」的推薦目錄:
- 關於short-term career goal 在 FAKE 文青 Facebook 的最佳貼文
- 關於short-term career goal 在 Scholarship for Vietnamese students Facebook 的最佳貼文
- 關於short-term career goal 在 Scholarship for Vietnamese students Facebook 的最讚貼文
- 關於short-term career goal 在 コバにゃんチャンネル Youtube 的最佳解答
- 關於short-term career goal 在 大象中醫 Youtube 的最讚貼文
- 關於short-term career goal 在 大象中醫 Youtube 的最佳解答
- 關於short-term career goal 在 Interview Tips: Short and Long Term Goals l skillActz l ... 的評價
short-term career goal 在 Scholarship for Vietnamese students Facebook 的最佳貼文
[Apply experience]_Lân - A believer in luck (Part 1). Please help to share and tag your friends.
I'm a great believer in luck and I find the harder I work, the more I have of it. (Thomas Jefferson)
Tôi xin mượn 1 câu của Thomas để đặt cho tựa bài của mình...
Cũng như khi đua marathon vậy, chiến thắng là trên từng chặng đường chạy, không phải điểm xuất phát cũng chưa chắc là điểm đến...
Điểm 1: Chuẩn bị stats thật tốt.
Cái này thì mình đã có chủ đích học MBA hay xin học bổng từ lâu (khi bắt đầu đại học) nên các con số trong hồ sơ cũng khá tốt và mình cũng tự tin khi nộp vào các trường danh tiếng, stats tốt còn thể hiện mục đích học "serious" của mình.
Không cần đổi qua hệ số 4.0. Thông thường các trường Top10 đều hiểu (chắc họ lấy Ấn Độ và Trung Quốc ra làm "benchmark.")
Trường hợp mình: trung bình trên 8.5, và các môn liên quan đến quantitative đều trên 8.
Self-Report phải cẩn thận vì sau này đa số các trường sẽ backcheck lại hồ sơ.
GMAT và TOEFL.
Đa số các trường top 10 đều có điểm TOEFL và GMAT khá cao.
Trung bình GMAT khoảng 680-760. Các bạn sau này ráng thi GMAT trên 700, vì với tình hình ngày một đông sinh viên nộp vào trường top 5. Như Wharton năm nay chắc cũng trên 7500 hồ sơ, Kellogg và Chicago cũng trên 4000, Tuck và Darden hồ sơ cũng tăng 20% so với năm ngoái 2006. Và tính trung bình tổng số hồ so tăng gần 30% so với 2004 ở các trường top. (Số liệu: theo một số report blog admission tại các trường)
Mặc dù, các trường vẫn khuyến khích các sinh viên và người có ít kinh nghiệm nộp đơn, nhưng (come on) con số đậu vào chưa đầy 3%. Kinh nghiệm làm việc thường của các sinh viên ở trường này thì phải trên 4 năm tính đến lúc nhập học. Trường hợp như tôi lúc nộp hồ sơ 25 tuổi, nhưng đã gần 4 năm và nếu tính đến lúc nhập học thì được gần 4.5 năm.
Điểm 2: Một kinh nghiệm làm việc thú vị!
Các "con số đẹp" cũng chưa đảm bảo được gì, điều này còn khó hơn với các trường danh tiếng khi các sinh viên có các con số chẳng khác biệt gì mấy. Bạn nhắm mắt bốc cũng được hơn 2000 người có điểm GMAT trên 700. Hãy làm kinh nghiệm bạn "thú vị" trong mắt các adcom.
Thật ra, chẳng dễ chút nào, mình chẳng thể quyết định mọi thứ, muốn làm gì, ở đâu..vv. Nhưng thế nào được cho là "wow" và adcom chú ý: fast-track career evolution, diversity of background, interesting international exposure. (từ hay từ sách xin giữ nguyên tiếng Anh nhưng minh hoạ bằng một số ví dụ có thật bên dưới).
International exposure:
Một anh tên tạm gọi là Kumar sinh tại Ấn Độ, làm việc tại cho một tổ chức nghiên cứu về giống nấm. Anh ta xin qua chi nhánh tại Châu Phi làm 2 năm...
Một anh tiếp theo tạm gọi Gupta cũng Ấn Độ, sinh trong một vùng "nổi tiếng" Kashmir, làm cho một tổ chức cứu trợ tại Iraq, và hiện đang làm việc tại Ai Cập. Hai anh này cùng đậu vào Harvard năm nay. Cứ đâu phài Ấn Độ là điểm phải cao, anh Kumar điểm có 710 mà hình như Quantitative còn có 46, còn anh kia điểm cũng chỉ có 730. Nhưng họ có một số công việc thật "thú vị."
Career evolution: Nói đâu cho xa, mượn Lê phân tích 1 cái. Đã đọc profile 1 lần trên website nào rồi đó. Chi Lê nhà mình hình như học không phải là finance. Nhưng nhìn thấy kinh nghiệm làm việc là toàn trong ngành tài chánh. Điều này củng rất hay bởi vì các adcom muốn thấy thí sinh có những "điểm đặc biệt." Nhưng tất nhiên Lê chắc cũng trình bày trong essays nhiều và kể tại sao mình tại thành công trong ngành tài chánh...vv
Tôi có may mắn và thuận lợi rất nhiều về hoàn cảnh (chính bản thân và gia đình), được làm việc ở CH Séc và Đức trong một khoảng thời gian và level cũng rất senior ở lãnh vực nghiên cưu trong một hệ thống phân phối lớn toàn Châu Âu. Công việc thú vị và được trãi qua kinh nghiệm với các sếp mang các quốc tịch khác nhau. Về Việt Nam công việc cũng nhiều lần được thử nghiệm mô hình của Vùng Asia Pacific.Trong trong tổng cộng 4 năm làm việc chỉ thay đổi công ty có 1 lần và vẫn làm trong cùng ngành, đủ để adcom đánh giá kinh nghiệm,thăng tiến và cũng "mature" về nghể nghiệp.
Chỉ một vài ví dụ để cho thấy "điểm nổi bật" của hồ sơ. Mọi người định nộp MBA chắc cũng có nhiều điểm nổi bật. Nhưng nghề nghiệp, theo tôi, nên có sự "mạch lạc," thấy được sự vươn lên, và có thành công. Các trường muốn thấy mình đã làm tốt nhất trong hoàn cảnh nào. Và lại, điểm GMAT có thấp 1 tí thì có cái để bù, chính là cái "thú vị" trong nghề nghiệp.
Điểm 3: Mục tiêu ngắn hạn, dài hạn rõ ràng
Cái này trông dễ nhưng sẽ quyết định đến chuyện đậu rớt của bạn đấy! Không đùa!
Hãy lấy ví dụ này nhé, một anh người Nga, làm Supply Chain Management,7 năm, GMAT 730, TOEFL 290/300. Rớt Chicago, Waitlist Wharton. Cuối cùng, rớt hết cả hai và được nghe feedback session. "Long term goal" có vấn đề.
Một ví dụ nữa, Ấn Độ (lúc nào cũng đông!), làm IT ở UK, 6 năm kinh nghiệm ở công ty 1 Forune 500, GMAT 770, TOEFL iBT 110. Rớt Stanford, Kellogg, Chicago cũng do " short term, long term goal."
Đến đây chắc cũng có người thắc mắc tại sao tôi lại biết mấy chuyện này. Hồi tháng 1 lúc biết tin đậu vào Darden tôi có xin 1 chân làm Admission Consulting (Apprentice thôi), nên học hỏi rất nhiều writing và đọc profile cũng của nhiều người. Vậy đấy!
Tôi nghĩ cách tốt nhất mà các bạn hiện đang có là đọc kĩ cuốn "How to get into top MBA" của Richard Montauk. Đọc kĩ phần Goal các bạn sẽ thấy được tại sao "kiếm nhiều tiền không phải là Goal của MBA...vv."
Xin lưu ý rằng dù đọc kĩ đến đâu nhưng nhiều người vẫn mắc vào 1 vài cái lỗi rất lớn "Goal quá mơ hồ," "Goal quá xa rời thực tế," "Goal quá tầm thường"...
Cứ cho là vào trường rồi mới có sự điều chỉnh về career goal nhưng "túm lại," đã là goal thì phải cụ thể, chi tiết, thực tế và có sự nỗ lực để đạt vì nếu không biết mình sẽ làm gì, ở đâu vào lúc nào thì khó biết được.
Trong Tiếng Anhc ó cái câu gì đó mà tư nhiên quên mất phần đầu "....lead you to nowhere"
Điểm 4:"Why Y- school?" "Why me"
Why Y-school:
Đây cũng la một phần nhỏ chưa đến 100 từ trong bài Goal essay nhưng mà hết sức quan trọng. Đậu hay rớt cũng do phần này. Điểm chung là các bạn cứ "cắt dán" đại loại như thế này: "Tôi rất thích học trong một ngôi trường nổi tiếng về finance, marketing, and general management như trường của ông. Với các khóa học chuyên về finance như X, .... Giáo sư của trường ông cũng nổi tiếng thế giới như Philip Koller..." Chắc cũng đến vài trăm bài có cái phần này giống bài của bạn và tất nhiên, bạn chẳng được để mắt tới.
Cách tốt nhất là bạn cố gắng có những contact như đang làm là tốt nhất: tiếp xúc với các Director của Wharton, alumni hay sinh viên. Tất cả đều có cho bạn những ví dụ thực tế. Và cố gắng nếu không có tiếp xúc thì đừng có nói là có vì họ sẽ hỏi rất kỹ nếu bạn có nói trong phần interview.
Tôi đã phỏng vấn với Tuck lúc đã gần hết rồi chuẩn bị cúp máy. Tự nhiên bô- bô phan thêm 1 câu là "Tôi có biết có một đoàn SV Tuck đến HCM vào tháng 2 này." Tự nhiên nó hỏi sâu vào chuyện này liền " mày có contact ai không, người đó tên gì ...etc." Sau đó là trả lời là do bận quá nên đã không contact để gặp tại Caravell (SV Tuck ở sang gớm) ...vv Lần đó, tự nhiên để mất điểm phần đó.
Vậy thì Why Y-school cũng cho thấy được nó muốn biết chi tiết đến mức nào. Mày quan tâm đến trường tao ra sao? Có điểm gì thu hút mày? SV như thế nào? Cái này thì mỗi người phải tự nghĩ ra và riêng biệt qua những thông tin lấy được từ thực tế. Gặp mặt là phương pháp tốt nhất để tìm hiểu về "tại sao trường Y lại là sự lựa chọn tốt nhất của mình."
Mình kể thêm 1 ví dụ cho thấy sức mạnh của việc gặp trực tiếp tìm hiểu thực tế. Công ty mình năm nay cũng có 1 chị được học bổng toàn phần ở Judge (Cambridge). Chị này thi GMAT được có khoảng 560-580 gì đó. Nhưng Judge GMAT averge thì cũng khoảng 650-680 và chị lại apply vào round cuối nữa chứ. Bằng cách bay sang tới UK tìm hiểu tham dự mấy cái class visit và tha thiết mong muốn được học. Lúc được mời PV cũng bay sang luôn, thế là tin vui bất ngờ đậu vào.
Tất cả các trường muốn thấy được sự mong mỏi vào học trường của họ sau một quá trình tìm hiểu kĩ càng. Càng tìm hiểu lâu thì "argument" càng thuyết phục, điều này giúp bạn có được những ý rất hay, không bị lặp lại bởi các bài essay mẫu.
Trong năm vừa qua, mình cũng hơi gấp rút không làm tốt phần này cho tất cả các trường.Lúc nộp vào Nortra Dame round cuối còn tệ hơn, viết không thuyết phục vì chỉ biết có mấy thông tin "nghèo nàn trên website." Có lẽ đó cũng là một trong những yếu tố, khiến họ phát hiện mình không tha thiết lắm và cuối cùng mình bị "dings"
Hãy đầu tư hết sức "hoành tráng" phần này vì nó sẽ giúp ít bạn rất nhiều.
"Why me" là một phần bé tí trong Goal Essay nhưng cũng quan trọng không kém. Thường "why me" được bạn tận dụng tối đa trong interview với alumni.
Trong Kellogg Essay phần này cho bạn cả một bài tha hồ mà viết. Tuy nhiên không nên đề cập đến điểm GMAT, TOEFL ..etc để thể hiện bạn là "con ong chăm chỉ" vì điểm cao chẳng "hù" được adcom ở những trường top mà có khi còn phản ánh bạn là người "chằng có gì để nói ngoài GMAT." Đây là chỗ bạn thể hiện tại sao bạn "có thể nhảy vào dàn đồng ca nhà thờ" với SV ở trường này mà không hề bị chỏi. Kellogg đề cập cực kì cao đến "tinh thần đồng đội, đồng chí...vv." Bạn hãy tìm hiểu thật kĩ xem điểm nào bạn có thể đem vào nói ở phần này, nhưng một lần nữa, dù ngắn đến đâu cũng phải cụ thể, vì nó thể hiện đó là ý của bạn. Không thể "ba hoa chích chòe" như thế này :"Em là một người chăm chỉ, có tinh thần đồng đội, chịu khó lao động, biết giúp đỡ bạn bè khi cần thiết." Đây không phải là câu hỏi mẫu trong cuộc thi "hoa Hậu Báo Tiền Phong hằng năm." Nhưng nên viết cụ thể đại loại như " Hôm bữa có nói chuyện với Chris, ông ấy bảo tụi tao mỗi sáng uống cà-phê và ăn sáng với các giáo sư như một văn hóa của trường có từ khi thành lập....Điều này cho thấy ở trường ông có một.......rất phù hợp với ........"
short-term career goal 在 Scholarship for Vietnamese students Facebook 的最讚貼文
Le – First be well-prepared, then follow your heart (Part 2)
3. Quá trình làm application
Nếu cuối năm 2005 mà tôi làm gấp rút thì cũng kịp apply cho Fall 2006, nhưng lúc đó career goal của tôi chưa rõ ràng, và tôi cũng chưa hiểu rõ lắm về admission procedure, nên tôi quyết định sẽ apply cho Fall 2007. Phải đến buổi offline với anh Quang và anh Khoa vào tháng 12 năm 2005 thì tôi mới biết rõ là quá trình apply gồm những gì. Trước đó tôi còn chưa biết GMAT là test gì, và ai hỏi tôi định target Toefl bao nhiêu điểm thì tôi đều nói là target Toefl 800 điểm, sau này tôi mới biết là mình nhầm.
Quá trình làm application đòi hỏi sự đầu tư công sức rất lớn, và là một quá trình đi tìm lại chính bản thân mình nhằm hoàn thiện nó hơn. Vì vậy, cho dù tôi có fail hết tất cả các trường thì tôi cũng không tiếc, vì điều quan trọng nhất là qua quá trình này tôi đã nhận ra tôi hay/dở ở chỗ nào và cần improve thêm những kỹ năng nào.
Trong một bài post nào đó tôi đã nói là nên chia việc chuẩn bị apply thành 2 thành phần:
A. Improve yourself
B. Improve your application materials
Và chuyện “improve yourself” quan trọng hơn chuyện “improve application material”.
A. Tôi đã tự improve bản thân mình như thế nào?
Tất nhiên là chuyện self-develop bản thân là một chuyện phải làm liên tục và làm cả đời, nhưng ở đây tôi chỉ nói đến việc tôi improve bản thân tính từ thời điểm bắt đầu chuẩn bị application cho đến lúc nhận được admission và improve những mặt liên quan trực tiếp đến bộ hồ sơ của tôi.
Tôi bắt đầu bằng việc lập bảng SWOT chi tiết cho bản thân. Tôi cố gắng lục lọi trí nhớ để xem mình đã làm được những gì hay, đã có những thất bại nào, có kỹ năng nào và thiếu kỹ năng nào. Làm cái này phải mất cả tháng, mỗi ngày add thêm vào list một vài điểm hay remove đi một vài điểm. Thật may là tôi đã có kinh nghiệm sống khá phong phú, kinh nghiệm làm việc vững, và tôi cũng là người ưa hoạt động nên ngoài chuyện công việc thì tôi cũng có những chuyện khác để mà tự hào.
Sau đó, tôi lập ra phương án để củng cố những cái mà tôi còn yếu trong khoảng thời gian cho phép là vài tháng cho đến khi submit application. Tất nhiên có những cái mà tôi cảm thấy không thể củng cố được trong một thời gian ngắn như thế thì tôi đành chấp nhận để sau này sẽ tiếp tục củng cố nó từ từ. Xin liệt kê ra một vài cái mà tôi đã làm.
a. Tiếng Anh
Tôi vốn tự tin về vốn tiếng Anh của mình, vì hồi đại học đã mất 4 năm học chuyên ngành Ngữ Văn Anh mà. Vấn đề là kỹ năng nghe của tôi còn hơi kém, nên tôi đăng ký đi học một lớp luyện Toefl, mà chủ yếu vào chỉ để luyện phần nghe. Sau gần 2 tháng (mỗi tuần học 3 tiếng vào weekend), coi như tôi xong phần tiếng Anh và yên tâm đi thi Toefl.
b. Kỹ năng phân tích
Cái này thì tôi cũng yên tâm, vì nghề Audit của tôi đòi hỏi phải sử dụng kỹ năng này nhiều, và suốt 3 năm làm nghề này tôi bị rèn nhừ tử về kỹ năng này rồi. Hồi học đại học suốt ngày phải phân tích/bình giảng các tác phẩm văn học, phân tích nhân vật, nên tôi cũng gọi là có óc phân tích chứ không đến nỗi tệ. Từ bé đến hết cấp 3 tôi học giỏi đều các môn và cũng luôn là một cây toán lý của lớp. Vì vậy tôi yên tâm về kỹ năng phân tích, nghĩa là tôi sẽ không phải lo nhiều về kỳ thi GMAT.
c. Kỹ năng giao tiếp
Công việc của tôi cũng đòi hỏi phải giao tiếp nhiều, làm việc với external clients là chủ yếu, tính tôi vốn cũng thích giao du, nên may mắn thay là kỹ năng này của tôi cũng ổn. Tuy nhiên, để chắc ăn, tôi cũng lôi mấy cuốn sách cũ dạy về giao tiếp ra đọc lại để refresh đầu óc về vấn đề này.
d. Kỹ năng lãnh đạo
Tất nhiên chẳng thể luyện kỹ năng lãnh đạo trong vài tháng. Tôi chỉ còn cách là tìm đọc mấy cuốn sách về vấn đề này (như cuốn “the art of possibility” chẳng hạn), rồi mò lên website của Harvard (phần mấy sinh viên giới thiệu về leadership style của mình) xem mấy bác sinh viên trên đó định nghĩa leadership là gì, và tự ngồi đánh giá xem mình đã làm tốt được phần nào, phần nào chưa làm tốt. Tôi cũng tự vấn mình xem tôi thích leadership kiểu nào (đây là lần đầu tiên tôi tự hỏi mình câu này). Và tôi cũng nhận ra xưa nay tôi lead theo bản năng là chủ yếu, chứ chưa cố gắng rèn kỹ năng này.
e. Achievements
Tôi lục lọi trí nhớ xem những achievement nào mà tôi tự hào nhất, xem xét nhiều mặt: công việc, cuộc sống, những họat động ngoại khóa, v.v. Lúc ngồi review lại cái này tôi mới thấy là giá mà trước giờ mình result-oriented hơn. Có nhiều việc tôi khởi đầu rất tốt, nhưng không theo đuổi được đến cùng để có achievement/impact cho thật tốt như ý muốn ban đầu. Hoặc trước đây tôi cũng hay có suy nghĩ (như một số bạn trẻ bây giờ vẫn hay rêu rao) đại loại là “life is a journey”, và miễn sao mình enjoy cái journey là được. Đến lúc ngồi làm evaluation về các achievements của cá nhân thì tôi nhận ra là enjoy cái journey cũng quan trọng, nhưng what’s the outcome out of the journey cũng quan trọng không kém. Nếu không có clear goal thì mình cứ chạy loăng quăng, làm việc tà tà, và chẳng làm được mấy việc cho ra hồn. Thôi từ đây tôi sẽ cố gắng balance cả hai mặt: vừa enjoy cái journey và vừa làm sao để có được impact/achievement cho tử tế một tí trong những việc mà mình đã chọn làm.
f. Failures
Tất nhiên là tôi cũng từng nhiều lần thất bại và cũng có thói quen tự rút kinh nghiệm từ những thất bại đó. Nhưng ngẫm kỹ thì thấy mình cũng chưa có thất bại gì cho ra hồn, chứng tỏ mình cũng chưa dám làm những việc nhiều thách thức, chưa dám làm việc lớn nên mới chưa có thất bại lớn. (Hay là đến lúc viết essay về failure, tôi viết là thất bại lớn nhất của tôi là đã 27 tuổi mà chưa có thất bại nào lớn cả ) Thôi thì, rút kinh nghiệm cho sau này vậy.
g. Career goals (short term & long term)
Cái này thì phải nói là rất messy tại thời điểm tôi chuẩn bị làm application. Mất gần cả năm trời (từ cuối 2005 cho đến gần cuối 2006) mà tôi vẫn chưa biết được rút cục là trong tương lai lâu dài mình thích làm gì. Tôi ngồi liệt ra những loại nghề mà tôi thích và không thích. Nhưng vẫn còn lại nhiều cái mà tôi thích quá, tôi phải tiếp tục narrow down cái list. Thế là tôi vào mấy website về career xem description của các ngành nghề còn lại trong cái list thích của tôi, rồi tìm những người làm lâu năm trong nghề mà tôi biết để hỏi thêm thông tin thực tế, rồi suy đi tính lại, xem xét ảnh hưởng của công việc đến cuộc sống gia đình sau này (đằng nào rồi tôi cũng sinh con và làm mẹ, đâu có thoải mái mà chọn một công việc mình thích nhưng chẳng còn thời gian cho gia đình và con cái được), rồi phải nhắm xem cái mình thích đó có thực tế không, nhắm có transfer được từ công việc hiện tại sang công việc mới mà tôi thích không, v.v.
h. Life goal
Cũng nhiều lần tôi tự hỏi mình là rút cục thì life goal của tôi là gì, nhưng có lẽ đây là lần mà tôi ngẫm nghĩ về nó một cách serious nhất. Cố gắng gạt bỏ những mơ mộng vớ vẩn và focus vào thực tế. Làm một người mẹ tốt? một người vợ hiền? đạt được đỉnh cao trong một lĩnh vực mà tôi sẽ chọn? kiếm thật ) Tôi có cônhiều tiền và trở nên càng giàu càng tốt? tất cả các điều trên? (bạn vẫn hay rêu rao là, cuộc sống rất đơn giản: nhỏ thì có cha mẹ nuôi, lớn tí lấy chồng thì chồng nuôi, chồng chết thì con nuôi. Ôi sao tôi không giống bạn tôi cho khỏe, sao tôi lại nghĩ ngợi nhiều làm gì cho mệt cái đầu thế này.
Còn nhiều cái khác mà tôi ngồi tự đánh giá và suy ngẫm...
B. Improve application materials
a. Toefl & GMAT
Với tôi thì 2 cái tests này khá đơn giản và không mất nhiều thời gian lắm. Tôi thanh toán gọn 2 cái test này rất nhanh để có thời gian mà ngẫm nghĩ suy tư nhiều cho phần A trên kia (phần làm tôi cực kỳ hao tâm tổn trí).
Tôi tà tà ôn Toefl trong 2 tháng (mà thực ra chỉ học có mỗi 3 tiếng cuối mỗi tuần, trong đó ngồi ngủ gật hết 1.5 tiếng). Do chủ quan lúc làm bài thi nên điểm Toefl của tôi hơi bị thấp (thế quái nào mà ở nhà tôi làm thử thì lúc nào cũng 650-660, mà đến lúc đi thi chỉ được có 613, tệ thật!). Do cứ assume là 600+ là tốt rồi nên tôi yên tâm gác chuyện Toefl lại, cho đến khi phát hiện ra mình không đủ điểm để apply HBS thì tôi tức ơi là tức. Mà tôi không có thời gian để ôn và thi lại theo kiểu iBT nữa.
GMAT thì tôi ôn tập trung trong 3 tháng: trong đó 2 tháng đầu là trung bình mỗi tuần học được khoảng 6 tiếng, còn tháng sau thì nghĩ phép và ôn mỗi ngày khoảng 6 tiếng (thời gian này tôi phải kết hợp vừa học vừa điều trị bệnh, bác sỹ recommend nên nằm nhiều, nên cũng không tập trung học được tối đa như tôi mong muốn). Đến tuần trước khi thi, tôi định nghĩ phép thêm 1 tuần để ôn thi, thì ông xã tôi bất ngờ nhập viện mổ. Thế là tôi mất tiêu cả tuần ăn dầm ở dề trong bệnh viện, đêm đến thì ngủ lăn ngủ lóc. Tới ngày đi thi, tôi phờ phạc xách gói đi. Phần làm bài viết tối súyt ngủ gục mấy lần. Đến phần tóan tôi cũng chưa tỉnh lắm nên kết quả là thiếu giờ, phải đánh đại mấy câu cuối. Phần verbal tôi mới tỉnh hẳn và làm khá hơn. Kết quả: 680 (target của tôi là 750, và tôi nghĩ bét lắm tôi cũng được 720 cơ đấy). Tôi thất vọng quá chừng, định sẽ thi lại ngay tháng sau đó. Lúc đó đã là cuối tháng 9, nếu thi lại thì tôi phải cắt thời gian viết essays, họăc không kịp apply round 2. (Tôi kể chuyện này để các bạn thấy rằng, việc các bạn gặp một vài biến cố ảnh hưởng đến tiến độ làm application thì cũng là chuyện thường, và đừng vì thế mà nản chí bỏ cuộc hoặc dời lại kế hoạch apply cho đến năm sau. Tốt nhất là bạn nên cố gắng xong mấy cái tests vớ vẩn đó càng sớm càng tốt cho khỏe người.)
Tôi xách kết quả GMAT đi tham khảo ý kiến một số người thì đa số đều khuyên tôi thi lại, trừ anh Tài và mấy người alumni của trường top. Anh Tài khuyên tôi nên đầu tư nhiều thời gian vào essay vì đó là phần quan trọng nhất, viết được essays có chất lượng sẽ mất nhiều thời gian hơn tôi tưởng (mà đúng thế thật). Và tôi quyết định không thi lại GMAT.
Vì GMAT thấp (và vì nghe mọi người trên forum nhà mình hù dzữ quá) nên việc chọn trường của tôi khó khăn hơn, và mặc dù các alumni liên tục trấn an tôi là GMAT như thế là ổn rồi, tôi vẫn thấp thỏm suốt trong quá trình apply cho đến khi nhận được admission và financial aid của các trường. Qua kinh nghiệm cá nhân này, tôi thấy các bạn không cần phải quan trọng hóa điểm GMAT quá. Nếu bạn được khoảng 700-720 và balance giữa 2 phần quant và verbal rồi thì bạn có thể yên tâm quên GMAT đi. Còn nếu bạn bị 680 như tôi thì cũng đừng quá lo: adcom còn nhìn vào các phần khác trong bộ hồ sơ của bạn để đánh giá academic ability của bạn chứ không chỉ dựa vào GMAT. (Tôi cũng may là percentile của Quant là 78% và của Verbal là 85%.)
b. GPA
Dĩ nhiên là tôi chẳng thể làm gì để thay đổi được GPA rồi, và GPA của tôi cũng chỉ có 6.88. Again, GPA cũng chỉ là một phần nhỏ của bộ hồ sơ.
Ngòai ra tôi có một vũ khí khá lợi hại: đó là chứng chỉ ACCA. Chứng chỉ này khá uy tín ở Anh và nhiều nước khác. Và tôi nghĩ rằng chứng chỉ này làm mạnh thêm academic ability của tôi.
Nếu bạn đang học dở dang ACCA, CPA, hay bất kỳ một khóa học gì đó, thì nay bạn có thêm động lực để hoàn thành nó. Các chứng chỉ này sẽ phần nào làm mạnh thêm bộ hồ sơ của bạn xét về mặt academic ability. Tuy nhiên, nếu bạn đang không học gì cả thì cũng đừng nhảy vào học mấy chứng chỉ như CPA hay CFA nếu nó không add value cho nghề nghiệp hiện tại hay tương lai của bạn, adcom sẽ thấy bạn thật non-sense khi đi học một thứ mất thời gian và công sức như thế mà không cân nhắc kỹ đến costs/benefits của nó.
Một cách để làm mạnh thêm academic ability đối với các bạn có non-business background là đăng ký đi học một vài khóa accounting hoặc finance ngắn hạn (nếu bạn chưa học những môn này ở undergraduate). Chọn khóa nào không quá khó nhưng có thi cử đàng hoàng, có cấp certificate hoặc bảng điểm. Ít nhất thì vì bạn không có business background nên việc học mấy khóa này cũng chuẩn bị cho bạn một foundation tốt để bạn dễ thở hơn khi học mấy môn này ở năm 1 của chương trình MBA.
Continue...
short-term career goal 在 Interview Tips: Short and Long Term Goals l skillActz l ... 的推薦與評價
... <看更多>